Nhức đầu được định nghĩa là đau ở đầu và vùng trên cổ. Nó là một trong những vùng thường đau của cơ thể và gây ra bởi nhiều nguyên nhân. Rất nhiều người đau khổ bởi nhức đầu và đôi khi chữa trị kéo dài mà không đạt được kết quả.
Theo Ðông Y, tất cả những nguyên nhân mất quân bình về khí huyết từ bên trong, như can phong nổi động thường nhức đầu một bên. Nguyên nhân do thực chứng gây ra như can phong thượng nghịch và do hư chứng gây ra như khí huyết suy. Những loại nhức đầu này thường hay gặp.
Theo thống kê năm 2007 có 28 triệu người tại Mỹ, khoảng 12% dân số bị bệnh nhức đầu một bên này. Trẻ em, nhất là vào tuổi dậy thì, cả nam lẫn nữ, nhưng sau tuổi dậy thì thì, nữ bị nhiều hơn nam. và được ước lượng khoảng 6% nam và 18% nữ bị nhức đầu một bên trong một đời người.
Loại nhức đầu nhiều người bị nhất là nhức đầu vì căng thẳng do nhiều lý do; công ăn việc làm, nếp sống gia đình, cách sống và ăn uống của mỗi cá nhân. Loại nhức đầu này thường hay gặp nhiều nhất tới 90% ở tuổi trưởng thành và đàn bà thường bị nhiều hơn đàn ông.
Khi định bệnh nhức đầu cần phải nghiên cứu thời gian, hoàn cảnh, cách nhức đầu, vị trí nhức đầu, hướng lan, cường độ và nhịp điệu… Các hiện tượng phối hợp kèm theo (nôn mửa, mắt cảm thấy như bị lồi ra, chóng mặt)…
Như ta đã biết có nhiều nguyên nhân gây ra nhức đầu, nhưng có thể qui về hai loại nhức đầu sau đây để các y sĩ và các trung tâm chẩn trị áp dụng chữa trị có hiệu quả hơn.
1. Nhức đầu cấp tính và mãn tính:
Nhức đầu cấp tính do khí hậu thay đổi nóng lạnh bất thường, cơ thể không thích ứng ngay được, do cảm cúm, viêm màng não, bướu trong đầu.
Nhức đầu mãn tính có thề do các bệnh ở tai, mũi, họng, nội tiết, dị ứng, đối với thần kinh và tinh thần.
Tinh thần suy nhược thường kèm theo nhức đầu, mất ngủ, mệt mỏi, tim đập nhanh, cơn hỏa bốc, tức ngực, khó thở, kém ăn, ra nhiều mồ hôi tay chân, tính tình bất thường, âu sầu, bi quan…
2. Những nguyên nhân chính thường sinh ra nhức đầu:
3. Cách định bệnh nhức đầu tùy vào đường đi của kinh mạch:
Tất cả những đường kinh châm cứu dương của tay và chân đều gặp nhau ở đầu. Do đó, bất cứ một sự mất quân bình nào của tạng phủ, cũng có thể gây ra bệnh nhức đầu. Cơ thể có những điểm mạnh, điểm yếu và các đường kinh mạch cũng vậy. Những điểm yếu sẽ báo hiệu cho chúng ta biết như đau nhức, mệt mỏi, mất ngủ, ăn không tiêu, nhức đầu. Nhờ vào đặc tính này chúng ta có thể lợi dụng chúng để định bệnh như bệnh nhức đầu:
-Nhức đầu vùng sau ót do liên quan tới bàng quang và tiểu trường.
-Nhức đầu trước trán do bao tử gây ra.
-Nhức đầu một bên do gan gây ra.
-Nhức đầu sau tai do mật gây ra.
-Nhức đầu ở đỉnh đầu do thận và gan gây ra.
Châm cứu là sở trường trong những trường hợp nhức đầu trên, vì các tạng phủ mới chớm bị bệnh hay chỉ hơi yếu, nên dùng phương pháp bổ trong trường hợp hư chứng và tả trong trường hợp thực chứng để quân bình lại âm dương cho tạng phủ bị bệnh. Ðồng thời khai thông kinh mạch bằng cách tìm những huyết thống điểm bị tắc nghẹt để khai thông khí huyết, chỉ một vài lần là nhức đầu được trị liệu hết hẳn.
Nhức đầu như bị bó lại
Hôm nay chúng ta đi tìm hiểu nhức đầu cảm thấy như đầu ở trong cái túi và thấy tròng trành như ngồi trên thuyền thúng, cổ cứng, khó xoay đi, xoay lại. Ngủ chập chờn không yên giấc, mắt mờ, cổ họng và miệng cảm thấy khô, phần trên thân thể nóng và phần dưới lạnh, nhất là từ dưới đầu gối trở xuống.
Bệnh nhức đầu này thường liên quan tới âm suy hay còn gọi là huyết suy, thêm với thấp lưu giữ trong cơ thể do tỳ khí suy, không kiện toàn tiêu hóa, giữ lại mà thành thấp.
Thiết tưởng chúng ta nên biết qua về thấp và hư hỏa, trước khi chúng ta đi tìm hiểu về nhức đầu như ở trong cái túi nêu trên.
Ðặc tính của thấp
Thấp gồm hai loại: Ngoại thấp, độ ẩm thấp là chủ khí về mùa hạ, hay gặp ở những nơi ẩm thấp, và những người thường làm việc ở những nơi này. Nội thấp do tì khí suy, không kiện toàn tiêu hóa, tân dịch đình trệ gây ra thấp.
Ðặc tính của thấp hay gây ra chứng nặng nề và đau khớp xương lưng, và chân tay.
Ðau do hỏa: Hỏa hay gây ra nóng, và chứng viêm, sưng. Nhưng cần phải phân biệt hư hỏa và thực hỏa do ngoại cảnh ảnh hưởng. Vì hỏa gây viêm và sưng các khớp xương, nên thường gây ra đau xương sống, vai, thắt lưng và nhất là đầu gối làm đi đứng khó khăn. Nguyên nhân nhức đầu do thấp và hư hỏa gây ra.
Thường cơ thể chúng ta ít khi có thực hỏa, mà phần nhiều là do hư hỏa, có nghĩa là chân âm suy yếu, không giáng hỏa xuống phần dưới của cơ thể được, do đó hỏa bốc lên trên làm: mắt mờ, cổ họng và miệng khô, ngủ chập chờn, tai đôi khi nghe tiếng o o như tiếng côn trùng kêu, đau đầu kèm theo với thấp nhiệt (giả nhiệt), vì thấp có tính nặng nề, nên gây ra đau đầu cảm thấy như bị bó lại và cảm thấy đầu rất là nặng nề, khó xoay đi xoay lại. Có người than như mang nhiều cân đá trên đầu, không còn làm gì được, có người còn thêm đầu cứ lắc lư làm rất khó chịu và bực bội, và chán nản không muốn sống.
Bệnh này, Y Khoa Ðông Phương định do thận âm suy, gây ra hư hỏa bốc lên trên đầu, cộng với thấp có thể do tỳ khí suy yếu lâu ngày không kiện toàn tiêu hóa mà thành thấp lưu lại trong người.
Cả hai tính chất này kết hợp lại sẽ gây ra bệnh nhức đầu nêu trên. Muốn chữa bệnh này phải bổ thận ân, thanh giả nhiệt và bổ tỳ khí cũng như tiêu thấp thì bệnh sẽ ra đi.
Bài thuốc
Sơn thù du 9 grs Mẫu đơn bì 9 grs Phục linh 9 grs Trạch tả 9 grs Hoài sơn 9 grs Thục địa 18 grs
Toa thuốc có tác dụng bổ âm, thanh nhiệt, bổ tỳ và an tâm.
-Thục địa bổ thận và gia tăng lượng huyết, giảm đau.
-Sơn thù du làm ấm gan và giúp tăng cường sức mạnh cho thận.
-Mẫu đơn bì giúp thanh nhiệt và giảm huyết nóng.
-Sơn dược nuôi tì và tăng cường thận.
-Phục linh gia tăng tiểu tiện, giảm sưng, giảm thấp nhiệt trong tì.
-Trạch tả vừa giúp lợi tiểu, bồi bổ tai, giảm ù tai, mắt bớt khô và mờ.
Gia:
-Ðộc hoạt 9 grs, tần giao 9 grs, tục đoạn 9 grs: Hóa thấp.
-Hoàng liên 3 grs: đặc biệt đưa thuốc lên đầu và thanh thấp nhiệt và giảm nhịp đập của tim.
-Toan táo nhân 9 grs, viễn chí 9 grs: An tâm, ngủ ngon.
-Bạch truật 6 grs, ngũ vị tử: Bổ tỳ khí, giúp kiện toàn tiêu hóa.
-Long đởm thảo 6 grs: Thanh gan nhiệt.
Ngoài ra, châm cứu trong trường hợp nhức đầu này kết quả rất khả quan, từ 5 tới 7 liệu trình châm cứu có thể hết hẳn.